Belanja di App banyak untungnya:
Belanja di App banyak untungnya:
Belanja di App banyak untungnya:
T-54 và T-55 là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong lịch sử với tổng số 95.000 xe được xuất xưởng[2] (một số nguồn khác thì ước lượng con số sản xuất này dao động từ 85.000 - 100.000 chiếc, bao gồm cả những chiếc sản xuất tại nước ngoài với tên gọi khác).
T-54 xuất hiện lần đầu năm 1949 như một mẫu tăng hạng trung thay thế cho T-34 thời Thế chiến II. Nguyên mẫu T-54 đầu tiên được hoàn thành năm 1946 và được chế tạo lần đầu năm 1947. T-54 liên tục được sản xuất và cải tiến, và sau khi được sửa chữa, nó được đổi tên thành T-55. T-55 ra mắt vào năm 1958 và có đầy đủ mọi sự cải tiến của series T-54 mà không có khác biệt căn bản trong thiết kế và vẻ ngoài. T-55A xuất hiện vào đầu thập niên 1960. Việc sản xuất loại xe này tiếp tục đến tận năm 1981 ở Liên Xô và cũng được sản xuất ở Trung Quốc (Type 59), Tiệp Khắc và Ba Lan.
Một số lượng lớn loại này vẫn còn được các nước sử dụng, mặc dù đến thập niên 1980, T-54/55 đã bị Liên Xô thay thế bằng T-62, T-64, T-72 và T-80 trong vai trò loại tăng chủ yếu tại các đơn vị xe tăng của Hồng quân Liên Xô. T-54 được sử dụng rộng rãi trong các cuộc chiến từ sau năm 1950, như Hungary năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, và Syria năm 1970. Nó là xe tăng chính của các nước Ả Rập trong cuộc chiến 1967 và 1973 với Israel. Trong thập niên 1960, T-54 tham chiến ở Việt Nam, Campuchia và Uganda. Đến đầu thế kỷ XXI, T-54 và các phiên bản nâng cấp của nó vẫn phục vụ tích cực trong biên chế nhiều quân đội trên thế giới.
T-54 được chế tạo ở phòng thiết kế Hạ Tagil dưới sự chỉ đạo của A. Morozov năm 1946 và trong quá trình chế tạo mang tên "Obyekt 137". Xe tăng được tiếp nhận vào biên chế năm 1950 và sản xuất hàng loạt ở Kharkov, Hạ Tagil và Omsk. Trong quá trình sản xuất đã tiến hành nâng cấp xe tăng mà không thay đổi mác xe. Xe tăng T-54 có hai biến thể - T-54A và T-54B:
T-55 chạy bánh xích, khung gầm gồm năm bánh với một khoảng trống giữa bánh thứ nhất và bánh thứ hai và không có những trục lăn hồi chuyển. Nó có thân ngắn, tháp pháo hình vòm nằm bên trên bánh xe thứ ba. Pháo chính có cỡ nòng 100mm và có một lỗ thoát hiểm ở gần chân nòng. Xe tăng được trang bị một súng máy đồng trục 7,62mm và một súng máy 7,62mm dưới thân xe. Các mẫu T-55A về sau này không được trang bị súng đó.
T-55 được phân biệt với T-54 vì nó không có vòm ở bên phải và quạt thông gió của tháp pháo được lắp phía trước so với quạt thông gió của T-54, và tất cả các mẫu T-55 đều có một bộ phận tìm kiếm ánh sáng hồng ngoại dành cho pháo thủ lắp bên phải súng chính. Tuy nhiên, bộ phận tìm kiếm ánh sáng này không phải là một đặc điểm phân biệt, bởi vì nó cũng được trang bị thêm cho nhiều mẫu T-54.
Giống như T-34, T-54/55 được thiết kế để có thể sản xuất nhanh với chi phí rẻ. Năm 1970, mỗi chiếc T-55 có giá khoảng 115.000 USD theo thời giá khi đó, chỉ bằng 37% so với giá 1 chiếc M48 Patton của Mỹ (1 chiếc M48A3 có giá 309.090 USD thời giá năm 1961)
Xe tăng T-55 và biến thể T-55A được xuất khẩu tới 40 nước trên thế giới. Ngoài ra, T-55 còn được chế tạo theo giấy phép sản xuất ở Trung Quốc, Tiệp Khắc và Ba Lan.
T-55 kết hợp một khẩu pháo uy lực mạnh (theo tiêu chuẩn thời bấy giờ) với một thân tăng rất cơ động và nòng rất dài. Các cải tiến so với loại T-54 bao gồm: động cơ diesel V12 làm mát bằng nước với công suất 580 mã lực, tăng tầm hoạt động lên 500 km (lên tới 715 km với hai bình xăng phụ, mỗi bình 200 lít).
T-55 có thể lội qua độ sâu 1,4m mà không cần chuẩn bị trước, có thiết bị thông hơi cho phép nó vượt qua độ sâu lên đến 5,5m với tốc độ 2 km/giờ. Thiết bị này cần phải được chuẩn bị trước từ 15 đến 30 phút, nhưng có thể được vứt bỏ ngay sau khi ra khỏi nước.
Tài liệu phương Tây (nhất là thời Chiến tranh Lạnh) thường chỉ trích xe tăng T-54/55 có hệ thống ngắm bắn chất lượng thấp. Điều này một phần là do tuyên truyền chính trị, một phần khác là bởi các phát bắn thiếu chính xác của tổ lái các nước châu Á, châu Phi (tuy nhiên nguyên nhân chính là do các nước này huấn luyện tổ lái sơ sài, áp dụng chiến thuật kém chứ không phải do chất lượng xe tăng). Sau Chiến tranh Lạnh, khi các thông số của T-54/55 được công bố rộng rãi, có thể thấy hệ thống ngắm bắn trên T-54/55 được thiết kế rất tốt, rất thuận tiện để sử dụng và có những điểm ưu việt hơn so với các xe tăng phương Tây đương thời. Các kiểm tra kỹ lưỡng cho thấy T-54/55 có thiết kế rất tối ưu vào thập niên 1950, và vẫn có khả năng hoàn thành nhiệm vụ tốt sau khi các thiết kế mới hơn ra đời.
T-54 obr. 1949 có kính tiềm vọng TPK-1 cho chỉ huy. Đó là một cải tiến so với kính ngắm MK-4 trên phiên bản thử nghiệm T-54-1, bởi nó cung cấp độ phóng đại 2,5x thay vì không phóng đại. Khi nhìn ở cự ly xa, TPK-1 không đủ độ phóng đại. Thay vào đó, người chỉ huy phải dựa vào ống nhòm cá nhân 8x30 của mình. Ống nhòm Liên Xô nhìn chung là có chất lượng tuyệt vời, vì hầu hết được làm dựa theo các công nghệ thu được từ nhà máy Zeiss-Jena của Đức Quốc Xã thời Thế chiến II. Điều đặc biệt của TPK-1 là nó có thể được sử dụng để chỉ định mục tiêu cho xạ thủ. Điều này được thực hiện bằng cách nhắm vào mục tiêu và nhấn nút trái, một tín hiệu điện được gửi đi để tháp pháo tự động xoay về hướng mục tiêu, rồi sau đó xạ thủ sẽ ngắm bắn. Đây có thể coi là một hệ thống "Hunter - Killer" sơ khai, giúp đẩy nhanh tốc độ phát hiện và ngắm bắn mục tiêu. T-54 là chiếc xe tăng đầu tiên trên thế giới triển khai hệ thống như vậy (tiếp theo là xe tăng hạng nặng Conqueror của Anh vào năm 1955).
Phiên bản T-54B thì có kính tiềm vọng TPKUB và sau đó là TPKU-2B cho chỉ huy, có hai chế độ phóng đại có thể điều chỉnh là 1x (trường nhìn 17,5 độ) hoặc 5x (trường nhìn 7,5 độ).
Vì kính tiềm vọng TPK-1 không có khả năng nhìn đêm, kính nhìn đêm TKN-1 được giới thiệu vào năm 1951 cho chiếc T-54 obr. 1951, và tiếp tục được sử dụng trên T-54A, T-54B và T-55 (bản cải tiến TKN-1S). Khi vào ban đêm, chỉ huy phải tháo kính TPK-1 để thay bằng TKN-1, điều này không mất nhiều thời gian nhưng cũng gây phiền toái (từ T-62 thì kính tiềm vọng cho chỉ huy đều có 2 chế độ ngày - đêm nên không cần thao tác này). TKN-1 có độ phóng đại 2,75x, nó sử dụng công nghệ khuếch đại ánh sáng thế hệ thứ 1, với khả năng nhìn ban đêm ở chế độ chủ động (đi kèm đèn hồng ngoại OU-3) cho phép người chỉ huy xác định các mục tiêu kích cỡ xe tăng ở khoảng cách khoảng 400 mét.
Xạ thủ T-54 sử dụng kính ngắm TSh-20. TSh-20 cung cấp độ phóng đại cố định 4x với trường nhìn 16°. Chỉ số này là kém theo tiêu chuẩn hiện đại, nhưng là mức chấp nhận được đối với một sản phẩm vào cuối thập niên 1940 (ví dụ, kính ngắm M71C trên xe tăng M26 Pershing của Mỹ có độ phóng đại cố định 5x với trường nhìn 13°). Một tính năng tuyệt vời của TSh-20 là có ốp cao su vừa vặn với trán của pháo thủ - ngay cả khi đội mũ bảo hiểm, cho dù cơ thể của xạ thủ lắc lư khi xe di chuyển thì mắt anh ta vẫn sẽ bám chắc chắn vào thị kính. Đây là tính năng truyền thống của hầu hết các kính ngắm trên các xe tăng Liên Xô và Nga cho tới nay.
Tới năm 1951, kính ngắm TSh-20 được thay thế bởi TSh2-22, được giới thiệu cùng với mẫu T-54 Model 1951. Cải tiến lớn nhất là TSh2-22 có 2 chế độ phóng đại: 3,5x và 7x, dùng cho các tình huống tác chiến khác nhau. TSh2-22 có thể so sánh trực tiếp với kính ngắm No.1 của xe tăng Centurion (độ phóng đại 1x hoặc 6x) và kính ngắm M20 của M48 Patton (cũng có độ phóng đại 1x hoặc 6x).
TSh2-22 tiếp tục được thay thế bởi TSh2B-32, được giới thiệu vào năm 1955 và được triển khai trong phiên bản T-54A. Sự khác biệt là TSh2B-32 được thiết kế để kết nối với thiết bị ổn định mặt phẳng đơn STP-1 mới, cho phép ổn định tầm ngắm theo chiều dọc. Nó tiếp tục được sử dụng trong T-54B với bộ ổn định mặt phẳng kép STP-2 mới. Vào tháng 1 năm 1965, TSh2B-32P được lắp đặt cho T-54B và T-55, sự khác biệt duy nhất giữa nó và TSh2B-32 là thang đo phạm vi mới cho đạn 3UBM8 APDS. Chữ "P" trong "TSh2B-32P" có lẽ mang nghĩa là "podkaliberniy" hoặc "dưới cỡ nòng", đề cập đến đạn APDS. Các phiên bản T-54 và T-55 trước đó đã được cài đặt kính ngắm trong quá trình sửa chữa để cho phép chúng sử dụng loại đạn mới.
Năm 1957, chiếc T-54 được cải tiến, trở thành T-54B, với kính ngắm ngày/đêm TPN-1-22-11. TPN-1-22-11 có độ phóng đại cố định là 5,5x và trường nhìn rộng 6°. Nó có thể hoạt động ở chế độ thụ động hoặc chủ động. Ở chế độ chủ động, nó phải hoạt động song song với đèn hồng ngoại L-2 "Luna", cho phép xạ thủ xác định mục tiêu xe tăng ở khoảng cách 800 mét, tuy là không rõ ràng, nhưng không kém hơn các xe tăng phương Tây cùng thời. Trong chế độ thụ động, nó có thể xác định mục tiêu xe tăng ở khoảng cách 400 mét trong điều kiện đêm tối có độ sáng không nhỏ hơn 0,005 lux.
Kính ngắm đêm dùng đèn hồng ngoại là công nghệ mới, rất hiện đại trong thập niên 1950 - 1960, giúp các xe tăng T-54/55 thể hiện khả năng tác chiến tốt hơn xe tăng phương Tây vào ban đêm. Khi tác chiến ban đêm, các kíp lái xe tăng Centurion (Anh) và M48 Patton (Mỹ) thời đó chỉ có thể dựa vào đạn vạch sáng và đèn pha. Dùng đèn pha thì sẽ bị lộ vị trí xe tăng, còn đạn vạch sáng thì thường không chiếu sáng đủ lâu để quan sát thấy đối phương. T-54/55 có kính nhìn đêm sử dụng đèn hồng ngoại nên không gặp vấn đề đó.
T-54 thiếu một máy đo khoảng cách chuyên dụng như M48 Patton, khiến việc bắn đạn nổ (HE hoặc HEAT) trở nên thiếu chính xác (điểm rơi của đạn ở trước hoặc sau mục tiêu). Nguyên nhân không phải là do Liên Xô không chế tạo được thiết bị này, mà đây là biện pháp có chủ đích để làm giảm chi phí chế tạo, bởi theo học thuyết tác chiến chiều sâu của Liên Xô thời kỳ đó, T-54 là vũ khí tiến công cơ động, tác chiến trực diện ở cự ly trung bình nên không cần máy đo khoảng cách quang học lập thể. Mặt khác, máy đo khoảng cách thời đó dùng công nghệ quang học lập thể (như loại M17 trên xe tăng M48 Patton của Mỹ), muốn sử dụng thì xe bắt buộc phải đứng yên, điều này trái ngược với chiến thuật tiêu chuẩn của xe tăng là phải di chuyển liên tục để tránh bị đối phương ngắm bắn), do vậy nó thích hợp hơn với các vũ khí chuyên về phục kích, tác chiến từ xa như pháo tự hành chống tăng (những loại pháo tự hành chống tăng của Liên Xô thời đó như SU-122-54 hoặc Object-268 thì đều có máy đo khoảng cách quang học lập thể gắn trên vòm chỉ huy).
Tới thập niên 1970, khi pháo tự hành chống tăng trở nên lỗi thời (bởi tên lửa chống tăng) thì T-54/55 đã được trang bị máy đo khoảng cách bằng laser. Phiên bản T-55A được trang bị máy đo khoảng cách bằng laser KTD-1 vào năm 1974. KTD-1 có khoảng cách đo tối đa là 4000 mét và tối thiểu là 400 mét, biên độ sai số tối đa trong phép đo là 20 mét. Tuy còn những thiếu sót (việc nhập cự ly, tính toán đường đạn phải làm thủ công), KTD-1 vẫn là công nghệ rất hiện đại vào thời điểm đó. Thứ tốt nhất mà xe tăng của Đức có vào lúc đó là máy đo khoảng cách quang học lập thể EMES 12A1 trên mẫu Leopard 1A4 vào năm 1974. Sự hiện diện của máy đo xa laser cải thiện độ chính xác của xe tăng khi bắn phạm vi trung bình, và tăng mạnh độ chính xác khi bắn vào các mục tiêu ở khoảng cách lớn hơn 1 km.
Được giới thiệu trên chiếc T-54A vào năm 1954, bộ ổn định nòng pháo STP-1 cho khẩu D-10TG 100mm làm cho chiếc T-54 trở thành chiếc xe tăng thứ hai trên thế giới có được bộ ổn định nòng, sau chiếc xe tăng Centurion MK-3 của Anh (nó có một hệ thống ổn định hai mặt phẳng tiên tiến vào năm 1948).
Tuy nhiên, STP-1 chỉ có chức năng ổn định theo chiều dọc. Mùa hè năm 1954, Nhà máy số 183 tại Kharkov thử nghiệm thành công bộ ổn định nòng 2 chiều, đã cải thiện tỷ lệ bắn trúng ở phát bắn đầu tiên cao hơn 2 lần và tốc độ ngắm bắn giảm 1,5 lần. Tuy nhiên, bộ ổn định hai chiều tiên tiến chưa thể được sản xuất trên quy mô lớn. Kết quả là, STP-1 được sản xuất hàng loạt vào năm 1954 như một giải pháp tình thế. Tới năm 1956, bộ ổn định hai chiều STP-2 "Tsyklon" đã được giới thiệu cho T-54B cùng pháo D-10T2S.
Hệ thống ổn định hai trục là thiết bị rất tiên tiến so với xe tăng phương Tây vào thời điểm đó, chỉ có xe tăng Centurion của Anh là có hệ thống tương tự. Xe tăng M60A1 chỉ có được một bộ ổn định nòng hai trục vào năm 1972 dưới dạng hệ thống AOS (Add-On Stabilizer), thậm chí hệ thống AOS này có một loạt các vấn đề, bao gồm việc đôi khi tháp pháo quay không kiểm soát được. Leopard 1 của Đức chỉ có hệ thống ổn định mặt phẳng hai trục Cadillac-Gage vào năm 1970 với bản nâng cấp Leopard 1A1.
Trong thời gian cuối những năm 1950, gần như tất cả xe tăng T-54 obr. 1949 (được sản xuất từ 1949 đến 1951) và T-54 obr. 1951 (được sản xuất từ năm 1952 đến năm 1954) đã trải qua một chương trình hiện đại hóa để cải thiện khả năng chiến đấu tới cấp độ của T-54B. Tất cả các phiên bản T-55 cũng có bộ ổn định nòng hai chiều (two-plane) chứ không chỉ có bộ ổn định dọc như T-54 đời đầu.
Độ chính xác của STP-2 "Tsyklon" được báo cáo là 1,0 mil theo chiều dọc, và 1,5 mils theo chiều ngang, nghĩa là độ lệch trung bình là 1 mét theo chiều ngang và 1,5 mét theo chiều đứng ở cự ly 1 km. Nó cung cấp sự cải thiện khá lớn về độ chính xác khi bắn. Khi tiếp cận mục tiêu ở khoảng cách 800 - 1200 mét và di chuyển theo đường thẳng, tỷ lệ bắn trúng đã tăng 5,25 lần, tỷ lệ bắn trúng trong khi di chuyển ở một góc 15 độ so với mục tiêu đã được cải thiện 4 lần. Tóm lại, "Zarya" cho phép T-54/55 bắn trúng các mục tiêu kích thước xe tăng từ tầm ngắn đến trung bình với độ chính xác hợp lý ở tốc độ từ 12 đến 25 km/h và nâng cao tỷ lệ bắn trúng ở cự ly xa hơn.
Phiên bản nâng cấp toàn diện T-55AM được giới thiệu vào năm 1983 đã được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực tự động "Volna". Tất cả các thành phần điều khiển bắn ban đầu của T-54/55 đã được thay thế và một số công nghệ mới đã được bổ sung, bao gồm:
Tuy nhiên, T-55AM vẫn không được trang bị cảm biến áp suất gió, nhiệt độ, áp suất không khí, nhiệt độ buồng súng hoặc hệ thống ghi âm điện tử để tự động tính toán hao mòn nòng pháo. Vào thời đó, đây là những thiết bị đắt tiền chỉ được trang bị cho dòng xe cao cấp T-80. Nhìn chung, hệ thống "Volna" không không phải là một sản phẩm tiên tiến vào những năm 1980, nó không vượt trội hơn chiếc Leopard 1A4 (được chế tạo từ năm 1974 đến năm 1976) hoặc các loại xe tăng hiện đại vào đầu thập niên 1980. Thay vào đó, Volna là một biện pháp với chi phí thấp để nâng cao khả năng bắn chính xác của một chiếc T-54/55 cũ lên gần bằng mức của T-72B, và nó hoàn toàn thành công trong mục đích này.
Đến đầu thế kỷ XXI, nhiều quốc gia đã cho ra mắt nhiều gói nâng cấp hệ thống điều khiển hỏa lực (FCS) cho T-54/55, áp dụng nhiều công nghệ mới, ví dụ như El-Op Red Tiger của Israel, hệ thống điều khiển hỏa lực Matador, ống nhòm NobelTech T-series của Thuỵ Điển, Atlas MOLF của Đức, SUV-T55A FCS của Nam Tư, Marconi Digital FCS của Anh, SABCA Titan của Bỉ,... Một trong những hệ thống tốt nhất là EFCS-3 của Slovenia được tích hợp với FCS. Rất nhiều kiểu ống ngắm nhiệt khác cũng có thể được trang bị, gồm cả ống ngắm Nga/Pháp ALIS và Namut-type của hãng Peleng (Belarus). Có nhiều kiểu ống ngắm nhiệt có thể được trang bị cho phép phóng ATGM vào buổi tối.
T-54 được trang bị pháo rãnh xoắn 100mm mẫu D-10T. D-10T nặng 1.950 kg, áp suất buồng đốt tối đa là 289 MPa. Pháo có thể đạt góc nâng lên cao 16,5° hoặc hạ xuống 5°. Nó mạnh hơn các khẩu pháo M3A1 90mm của xe tăng M48 Patton và pháo 20 pounder (84mm) của xe tăng Centurion. Năm 1958, xe tăng T-55 được giới thiệu với pháo cải tiến D-10T2S.
Pháo D-10T có 2 hạn chế: không có bầu hút khói (bore evacuator, có chức năng ngăn khói thuốc phóng bay ngược lại khoang lái) và để thay thế nòng thì cần phải nhấc tháp pháo khỏi vòng tháp pháo và kéo toàn bộ cụm pháo ra phía sau. Dù sao thì những hạn chế đó cũng là điểm chung của hầu hết các loại pháo tăng thập niên 1950.
Tất cả các biến thể T-54 được sản xuất giữa năm 1947 và 1958 chỉ có thể mang theo 34 viên đạn pháo. Đến phiên bản T-55, cơ số đạn cho pháo chính được nâng lên 43 viên.
Hướng dẫn sử dụng cho xe tăng T-55A (phiên bản có bộ ổn định nòng pháo) cho biết tốc độ bắn khi xe đứng yên là 7 phát/phút và tốc độ bắn khi xe di chuyển là 4 phát/phút.
Ngoài pháo chính, bản gốc T-54-1 có một súng máy đồng trục 7,62mm, cùng 1 đại liên DShK 12,7mm gắn trên nóc xe để phòng không hoặc bắn bộ binh địch, thuộc quyền sử dụng của pháo thủ. Tuy nhiên, một số phiên bản T-54/55 đã loại bỏ khẩu 12,7mm. Trong một số phiên bản T-54/55 cải tiến từ thập niên 1990, đại liên 12,7mm có thể được gắn hệ thống điều khiển từ xa ở trong xe (đây là công nghệ mới áp dụng kể từ T-64), nhờ vậy có thể được xạ thủ ngắm bắn khi đang ngồi phía trong xe tăng mà không cần phải nhô người ra ngoài tháp pháo, giúp giảm khả năng thương vong cho xạ thủ.
Khi chiếc T-54 được đưa vào phục vụ trong Hồng quân, chỉ có hai loại đạn xuyên giáp có sẵn cho nó: BR-412 AP và BR-412B APBC. BR-412B được chính thức ra mắt vào khoảng năm 1946 (dường như nó đã được sản xuất vào đầu năm 1945) như một phiên bản sửa đổi của BR-412, có mũi cùn và mũ đạn để duy trì mũi nhọn khí động học. Đạn nặng 30,1 kg, sơ tốc 895 m/s.
Theo cách tính của Mỹ (tỷ lệ xuyên 50%, thép mục tiêu có độ cứng khoảng 200 BHN), với góc chạm 0°, BR-412B có độ xuyên:
Theo cách tính của Liên Xô (tỷ lệ xuyên 80%, thép mục tiêu có độ cứng 250-350 BHN), các con số này là:
BR-412B vượt trội rõ ràng so với đạn M318A1 APCBC cỡ 90mm của xe tăng Mỹ. Tuy nhiên, T-54 không được cấp phát đại trà đạn xuyên giáp cao cấp HVAP, mặc dù đạn HVAP BR-412P 100mm đã được sản xuất với một số lượng nhỏ (do giá thành đạn HVAP rất cao, nên có lẽ Liên Xô chỉ sản xuất số lượng lớn nếu xảy ra chiến tranh).
Vào năm 1953, BR-412B được thay thế bởi đạn BR-412D. Cả BR-412B và BR-412D tiếp tục được sử dụng song song trong một thời gian (một số quốc gia đồng minh cũ của Liên Xô thì vẫn sử dụng đạn BR-412B vào những năm 2000). Đạn nặng 30,4 kg, sơ tốc 887 m/s. Theo cách tính của Liên Xô (tỷ lệ xuyên 80%, thép mục tiêu có độ cứng 250-350 BHN), sức xuyên giáp là:
Nhìn chung, BR-412D cải thiện sức xuyên giáp 20% so với BR-412B. Theo những con số này, BR-412D có khả năng xuyên giáp phía trước của Leopard 1 ở khoảng cách 1500 mét. Đối với M48 Patton, BR-412D có thể bắn xuyên mặt trước tháp pháo ở khoảng cách 1800 mét, hoặc xuyên mặt trước thân xe ở khoảng cách 500 mét.
Năm 1967, đạn 3BM8 APDS cho pháo D-10T đi vào hoạt động. Việc phát triển đạn pháo chống tăng của Liên Xô rất bất thường khi đạn APFSDS đi vào phục vụ trước đạn APDS. Đạn nặng 20,9 kg, trong đó thanh xuyên nặng 4,13 kg làm bằng tungsten, sơ tốc 1415 m/s. Ở cự ly 2000 mét, đạn có độ xuyên 190mm thép ở góc chạm 0° hoặc 80mm ở góc chạm 60°.
Sau đó, đạn 3BM8 được thay thế bằng đạn 3BM20 APFSDS, nó có một lõi hỗn hợp thép - carbon wolfram trong cùng một thiết kế như đạn 115mm 3BM3. Thiết kế của mũ xuyên giáp 3BM20 cho hiệu năng vượt trội với mục tiêu nghiêng so với đạn 3BM8 APDS. Ở cự ly 2000 mét, đạn có độ xuyên 240mm thép ở góc chạm 0° hoặc 110mm ở góc chạm 60°.
Sau đó là loại đạn 3BM25 "Izomer" được chế tạo năm 1976 (kế hoạch hiện đại hóa đạn dược cho xe tăng đã được ban hành vào năm 1972 và dẫn đến việc tạo ra các loại đạn 3BM25 "Izomer" cỡ 100mm cho T-54/55, 3BM21 "Zastup" cỡ 115mm cho pháo U-5TS trên T-62 và 3BM22 "Zakolka" cho pháo 125mm D-81T trên T-64, T-72). Ở cự ly 1000 mét, đạn có độ xuyên 320mm thép ở góc chạm 0°. Ở cự ly 2.000 mét, đạn có độ xuyên 300mm thép ở góc chạm 0° hoặc 140mm ở góc chạm 60°. Đây là loại đạn APFSDS cuối cùng được Liên Xô phát triển cho T-54/55 trước khi nó được rút khỏi phục vụ.
Do T-54/55 đã được Liên Xô rút khỏi phục vụ vào cuối thập niên 1980, nên đạn pháo của nó đã lâu không có cải tiến. Theo thời gian, uy lực của pháo chính trên T-54/55 bị đánh giá không còn hiệu quả khi đối đầu những dòng xe tăng hiện đại, kém xa các loại pháo tiên tiến cỡ 125mm trên T-64/72/80/90, hay pháo 120mm tiêu chuẩn NATO. Nhưng số lượng T-54/55 đang hoạt động trong quân đội các nước ở châu Á, châu Phi vẫn rất lớn, nên một số nước đã nghiên cứu loại đạn xuyên động năng thế hệ mới cỡ 100mm để xuất khẩu cho các nước vẫn đang duy trì hoạt động của T-54/55.
Về đạn nổ lõm (HEAT), T-54/55 được trang bị đạn BK-5M ra đời năm 1961, có sức xuyên 390mm thép (không phụ thuộc vào khoảng cách). Sức xuyên này đủ để xuyên thủng giáp trước của hầu hết các loại xe tăng thời kỳ đó như M48 Patton của Mỹ, Centurion của Anh, hoặc Leopard 1 của Đức (thời điểm đó chỉ có T-64 của chính Liên Xô mới có giáp trước chịu được BK-5M). Tuy nhiên ở thập niên 1960, việc thiếu thiết bị đo khoảng cách khiến độ chính xác của đạn HEAT kém hơn nhiều so với đạn APFSDS, nên BK-5M thường chỉ dùng để tấn công mục tiêu đứng yên hoặc ở gần (dưới 1000 mét) chứ ít khi dùng để hạ mục tiêu di động ở xa.
Ở thời điểm ra đời, T-54 là một thiết kế rất thành công. So với T-34/85, T-54 có vỏ giáp trước dày hơn 2,2 lần (200mm so với 90mm), pháo chính 100mm mạnh hơn 1,5 lần so với pháo 85mm của T-34/85, trong khi đó trọng lượng xe không cao hơn đáng kể (36 tấn so với 32 tấn). So với đối thủ là M47 Patton và M48 Patton của Mỹ, T-54 nhẹ hơn rất nhiều (M48 nặng tới 50 tấn) trong khi vỏ giáp thì nhỉnh hơn và hỏa lực thì mạnh hơn (M48 chỉ trang bị pháo 90mm). Kích thước nhỏ gọn của xe cũng khiến T-54 trở thành mục tiêu khó bị bắn trúng hơn so với M48. Ngoài ra, mặt trước thân xe của T-54 được làm bằng thép hàn, có độ vững chắc tốt hơn so với mặt trước thân xe của M47 Patton được làm bằng thép đúc, dù độ dày danh nghĩa là như nhau (thử nghiệm của Nam Tư đã xác nhận điều này).[4]
Nhìn chung, T-54 có thể được coi là là ngang bằng với xe tăng M60 Patton về vỏ giáp thân xe[5] (trong khi M60 ra đời sau 10 năm và nặng hơn 10 tấn).
Trong thử nghiệm của Nam Tư, mặt trước của tháp pháo T-54 chỉ có thể bị xuyên thủng bởi đạn PzGr-39-1 APCBC bắn từ pháo KwK-43 88mm trên xe tăng Tiger II ở khoảng cách gần hơn 600 mét. Mặt trước thân xe là hoàn toàn không thể xuyên thủng, thậm chí từ 100 mét.
Một thử nghiệm với pháo 90mm M3A1 trang bị trên M47 Patton cho thấy vỏ giáp của T-54 là rất tốt theo tiêu chuẩn thời bấy giờ. Đạn 90mm T33 APBC hoàn toàn không thể xuyên thủng mặt trước tháp pháo T-54 ở bất kỳ phạm vi nào, phần phía trước của mặt bên tháp pháo chỉ có thể bị đánh bại ở phạm vi rất gần là 250 mét. Khi đạn T33 được bắn ra từ khẩu pháo M36 mới hơn trên M48 Patton, nó vẫn không thể xuyên thủng mặt trước thân xe, hoặc chỉ xuyên được mặt trước của tháp pháo T-54 ở khoảng cách ở 350 m, hoặc phần phía trước của mặt bên tháp pháo ở cự ly 850 m. Khi đấu với T-54, xe tăng M48 bắt buộc phải dùng đạn xuyên giáp cao cấp M304 APDS thì mới có thể xuyên được mặt trước tháp pháo T-54 ở cự ly 750 mét, hoặc xuyên được mặt trước thân xe ở cự ly 200 - 300 mét. Ngược lại, pháo 100mm của T-54 khi sử dụng đạn BR-412D APCBC có thể bắn xuyên giáp trước tháp pháo của M48 Patton ở cự ly 1.200 mét, xuyên được giáp trước thân xe ở cự ly 500 mét, và nếu sử dụng đạn BR-412D APCR thì cự ly tiêu diệt được M48 còn xa hơn nữa. Về sau, khi đạn 3BM-8 APDS ra đời (năm 1967) thì T-54 không gặp khó khăn trong việc bắn xuyên giáp trước xe tăng M60 ở cự ly 1000 mét.[5]
Một số phiên bản T-54/55 cải tiến có mặt trước thân xe và hông tháp pháo được bổ sung lớp giáp yếm BDD tăng cường, làm tăng khả năng kháng chịu đạn nổ lõm chống tăng. Đây là một hình thức của áo giáp hộp NERA, bao gồm các tấm thép xen kẽ với các lớp vật liệu tổng hợp. Bộ giáp yếm BDD có tác dụng tương đương lớp thép dày 120mm khi chống đạn động năng hoặc 250mm thép khi chống đạn nổ lõm, nó giúp tăng cường khả năng bảo vệ T-54/55 lên gần bằng mức của T-72M, đồng thời cũng khiến trọng lượng của T-54/55 tăng lên 40 tấn. Sức kháng cự của giáp trước tháp pháo (gồm lớp giáp yếm BDD kết hợp với giáp xe) tương đương 330mm thép khi chống đạn động năng hoặc 450mm thép khi chống đạn nổ lõm, đủ để chống lại các loại đạn APFSDS 105mm đầu thập niên 1970 cũng như tăng đáng kể khả năng sống sót trước súng chống tăng bộ binh như M72 LAW và RPG-7.
Khi giáp phản ứng nổ Kontakt-1 ra đời vào đầu những năm 1980, một số chiếc T-54/55 được trang bị loại giáp này nhưng chỉ để đánh giá. Mỗi khối Kontakt-1 có thể làm giảm sức xuyên của đạn nổ lõm lên đến 55% ở góc chạm 0 độ, và lên đến 80% khi góc chạm ở 60 độ. Việc bổ sung Kontakt-1 sẽ làm cho T-54/55 chống lại được tất cả các loại súng và tên lửa chống tăng không có đầu đạn nối tiếp. Tuy nhiên, thay vì Kontakt-1, T-54/55 nâng cấp được Liên Xô trang bị chủ yếu là giáp yếm BDD, bởi giáp yếm rẻ hơn và dễ lắp đặt hơn, và bởi T-54/55 đã trở nên lỗi thời vào thời kỳ đó (giáp phản ứng nổ được ưu tiên cho các loại xe mới hơn là T-72 và T-80).
Sau này, khi giáp phản ứng nổ trở nên phổ biến, nhiều nước đã tự nâng cấp T-54/55 trong biên chế của họ bằng việc mua giáp phản ứng nổ để gắn lên xe. Để xuất khẩu, Nga tiến hành một số gói nâng cấp cho T-54/55. Tiêu biểu là T-55M5, là gói nâng cấp thiên về khả năng phòng thủ, xe được lắp đặt thêm giáp phản ứng nổ thế hệ 2 Kontakt-5 quanh mặt trước tháp pháo và mặt trước thân. Kontakt-5 có khả năng giảm 50% sức xuyên phá của đạn nổ lõm và giảm 25% độ xuyên phá của đạn xuyên giáp động năng. T-54/55 khi được gắn Kontakt-5 được cho là có thể chịu được đạn xuyên giáp động năng APFSDS cỡ 105mm ở cự ly 1500 mét, hoặc chịu được đạn nổ lõm (HEAT) cỡ 105mm từ mọi cự ly.
Một số nước cũng tự tìm cách nâng cấp vỏ giáp của T-54/44 với công nghệ nội địa. T-55 Enigma của Iraq là một trong số những nỗ lực nâng cấp đáng chú ý hồi những năm 1980. Những tấm giáp được kỹ sư Iraq thiết kế đặc biệt đã được gắn vào bên hông xe và phần tháp pháo. Những tấm giáp này có lõi gồm nhiều khe, mỗi khe được cấu thành từ những tấm thép, nhôm và cao su. Mỗi xe tăng T-55 Enigma có 32 khối giáp được lắp đặt thêm, trong đó 8 khối bảo vệ hai phần thân, hai khối lớn được sử dụng bảo vệ động cơ, 8 khối được sử dụng để bảo vệ tháp pháo và nhiều tấm cỡ nhỏ khác để bảo vệ những chi tiết quan trọng của chiếc xe tăng. Trọng lượng của T-55 Enigma lên tới 41 tấn so với nguyên bản 36 tấn. Những tấm giáp do Iraq tự chế có hiệu quả thấp hơn giáp yếm BDD và giáp phản ứng nổ của Liên Xô, nhưng vẫn có hiệu quả khá tốt khi chống đạn nổ lõm, đồng thời nó rất rẻ và dễ chế tạo. Trong chiến tranh Vùng Vịnh, T-55 Enigma thể hiện được khả năng sống sót rất tốt khi đối đầu với bộ binh Mỹ, những thứ vũ khí chống tăng bộ binh phổ biến của Mỹ thời bấy giờ thường bị vô hiệu hóa bởi các tấm giáp đặc biệt này. Có trường hợp 1 chiếc T-55 Enigma bị trúng tới 4 quả tên lửa chống tăng MILAN mà vẫn không bị phá hủy.
Tất cả các xe T-55 đều có hệ thống dò tìm bức xạ PAZ, và T-55A cũng có thiết bị chống bức xạ. Một số chiếc T-55 được trang bị một hệ thống bảo vệ tổng thể NBC (lọc không khí và áp suất). Một màn khói dày có thể được tạo ra bằng cách phun nhiên liệu diesel bay hơi vào một hệ thống hút khí để tạo ra những chùm khói trắng đục, giúp che khuất tầm nhìn của các thiết bị ngắm bắn quang học và ảnh nhiệt trên xe tăng địch. Một số phiên bản T-54/55 nâng cấp được trang bị hệ thống phóng lựu đạn khói, giúp tạo màn khói nhanh hơn.
Một số cải tiến khác có thể được trang bị thêm gồm một đáy vỏ được tăng cường chống mìn, động cơ tốt hơn, xích bằng các miếng cao su, và ống bọc cho súng.
Để đổi lấy khung thân nhỏ, vỏ giáp dày và tốc độ sản xuất nhanh (nhằm đáp ứng nhu cầu của chiến tranh tổng lực với cường độ tổn thất cực lớn), độ tiện nghi của T-54 kém hơn các xe của Mỹ (đặc điểm thường thấy của các xe tăng Liên Xô) và thiết kế của T-54 gây khó khăn cho việc nạp đạn. Theo đài Discovery của Mỹ, họ xếp T-54 vào hàng thứ 9 trong top 10 xe tăng thành công nhất trong lịch sử, với các tiêu chí được đánh giá: tốc độ sản xuất nhanh hàng đầu, hỏa lực và vỏ giáp khá tuy nhiên độ tiện nghi kém.
Hệ thống bảo vệ hoạt động tích cực (APS) đầu tiên trên thế giới, được gọi là Drozd, được phát triển ở Liên Xô vào giữa những năm 1977 và 1982. Hệ thống này được lắp đặt trên khoảng 250 chiếc T-55A của cả hải quân và bộ binh (sau đó được đổi tên thành T-55AD) vào đầu những năm 1980, và được thiết kế để bảo vệ khỏi ATGM và súng chống tăng cá nhân loại như B40/B41. Nó sử dụng các cảm biến vi sóng radar đầu tiên ở mỗi bên tháp pháo để dò tìm đạn đang bay đến. Một máy lọc bên trong bộ xử lý radar được dùng để đảm bảo rằng hệ thống chỉ phản ứng lại với các mục tiêu đang bay ở tốc độ đặc trưng của ATGM. Những mục tiêu đó sẽ bị một hay nhiều rocket có mang các đầu đạn nhiều mảnh (giống với đạn súng cối), được phóng ra từ bốn ống được lắp ở mỗi bên tháp pháo.
Dù khá hiệu quả, nhưng Drozd dù sao vẫn là hệ thống đời đầu và vẫn còn nhiều thiếu sót. Drozd chỉ cung cấp sự bảo vệ hướng ra phía trước 60 độ ở phần tháp pháo, hai bên cạnh và phía sau có thể bị tấn công, để thay đổi hướng bảo vệ của hệ thống thì kíp lái phải quay tháp pháo. Radar của nó không thể xác định đe doạ ở nhiều mức góc nâng một cách thoả đáng, và các rocket phòng vệ có thể gây ra tổn hại với bộ binh đi theo ở 2 bên xe. Trong thập niên 1990, hệ thống này được thay thế bởi hệ thống ARENA tiên tiến hơn.
T-55 được chế tạo hiệu quả để tiêu diệt xe tăng hạng trung của đối phương. Cơ số đạn cho pháo chính là 43 viên. Các thùng nhiên liệu bên ngoài làm cho xe rất dễ bị tổn hại, vì nó được bảo vệ bằng vỏ thép mỏng. T-55 có khả năng hạn chế trong việc hạ pháo chính, gây trở ngại cho xe trong việc bắn từ trên khu đất cao. Ở những phiên bản T-54 đầu tiên, ống ngắm của pháo thủ bị gắn với súng chính, không cho phép pháo thủ kiếm được các mục tiêu một cách nhanh chóng.
Mặc dù tháp pháo hình nửa quả trứng của T-55 có các tính chất tốt, nó cản trở điều kiện làm việc của kíp lái. Theo cùng một tiêu chuẩn, thiết bị kiểm soát của nó cũng còn thô thiển so với các thiết kế xe tăng sau này. Vũ khí và nhiên liệu được bố trí ở vị trí dễ bị nguy hiểm. Việc thiếu rổ tháp pháo làm cho việc nạp đạn khó khăn. Người lái, chỉ huy, và pháo thủ tất cả đều trên một hàng, do đó nếu xe bị trúng đạn thì khả năng thương vong cả tổ lái sẽ tăng lên.
Bởi tháp pháo nhỏ và thấp nên góc hạ nòng của T-54/55 thường thấp hơn so với xe tăng phương Tây. Các nhà thiết kế phương Tây cho rằng đây là nhược điểm, bởi xe tăng sẽ không tận dụng được chiến thuật "Hull-Down" (nấp thân xe sau mô đất dốc, chỉ để hở nòng pháo) khi phòng thủ, khi ở địa hình cao hơn đối phương thì T-54 phải thò ra một phần thân xe để chiến đấu. Tuy nhiên, các nhà thiết kế Liên Xô không xem đây là một nhược điểm, bởi phương thức tác chiến chủ yếu của xe tăng không phải là phòng ngự mà là cơ động tấn công, tháp pháo nhỏ sẽ giúp giảm đáng kể xác suất trúng đạn khi tác chiến vận động. Nhiệm vụ ẩn nấp phòng ngự là của lực lượng pháo chống tăng chứ không phải của xe tăng, tuy nhiên nếu bắt buộc phải bố trí phòng thủ (vốn ít khi diễn ra) thì T-54/55 vẫn hoàn toàn có thể dùng lưỡi ủi đất (gắn trước thân xe) để tự đào hố ẩn nấp kiểu "Hull-Down" chỉ trong mấy phút.
T-55 không hoàn toàn kín không khí nên tổ lái có thể bị ảnh hưởng bởi vũ khí hóa học hay phóng xạ. Dù các thành viên kíp lái được bảo vệ khỏi bụi phóng xạ bởi một hệ thống lọc, họ bắt buộc phải đeo mặt nạ bảo vệ cá nhân và mặc đồ chống chất hoá học và sinh học. Xe tăng vì thế phải đi qua những vùng bị ô nhiễm nhanh chóng và sau đó lại phải được tẩy rửa trước khi hoạt động trở lại.
Xe tăng có thể được chế tạo kín nước để vượt qua chướng ngại nước với độ sâu lên đến 1,4m (5,5m với ống thông hơi). Tuy nhiên, có thể mất đến nửa giờ để chuẩn bị một đơn vị tăng trung bình để hoạt động được, và điểm vượt sông cũng cần được chuẩn bị.
Việc sản xuất T-54-1 lúc đầu khá chậm, vì chỉ có 3 chiếc được chế tạo vào năm 1946 và 22 chiếc vào năm 1947. 285 xe tăng T-54-1 được chế tạo vào năm 1948 bởi Nhà máy xe tăng Ural số 183 (Uralvagonzavod) của Stalin; sau đó nó đã thay thế hoàn toàn việc sản xuất T-44 tại Uralvagonzavod, và Nhà máy Diesel Kharkiv số 75(KhPZ). Việc sản xuất bị ngừng do chất lượng sản xuất kém và thường xuyên bị hỏng hóc. T-54-2 được đưa vào sản xuất năm 1949 tại nhà máy sản xuất xe tăng Uralvagonzavod số 423 vào cuối năm 1950. Nó thay thế T-34 được sản xuất tại Nhà máy Omsk số 183 vào năm 1950. Năm 1951, hơn 800 chiếc T-54-2 được sản xuất. T-54-2 vẫn được sản xuất cho đến năm 1952. T-54A được sản xuất từ năm 1955 đến năm 1957. T-54B được sản xuất từ năm 1957 đến tháng 4 năm 1959.
Năm 1958, Liên Xô bắt đầu sản xuất hàng loạt xe tăng T-55 và các biến thể của nó tại Nhà máy số 75, Nhà máy số 183 và Nhà máy số 174, kéo dài đến năm 1979. Xe tăng chỉ huy T -55K bắt đầu được sản xuất từ năm 1959. Xe tăng phun lửa TO-55 (Ob'yekt 482) được sản xuất cho đến năm 1962. Qua nhiều năm sản xuất hàng loạt, chỉ tại nhà máy số 174, 13.032 xe tăng T-55, T-55K, T-55A và T-55AK đã được sản xuất.[6] Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông phương Tây, có tổng cộng hơn 20 nghìn xe T-55 thuộc các biến thể cải tiến khác nhau đã được sản xuất tại Liên Xô.[7]
Tổng cộng 35.000 xe tăng T-54-1, T-54-2, T-54 (T-54-3), T-54A, T-54B, T-54AK1, T-54AK2, T-54BK1 và T-54BK2 đã được được sản xuất từ năm 1946 đến 1958 và 27.500 xe tăng T-55, T-55A, T-55K1, T-55K2, T-55K3, T-55AK1, T-55AK2 và T-55AK3 được sản xuất từ năm 1955 đến 1981.
Ba Lan đã sản xuất 3.000 xe tăng T-54, T-54A, T-54AD và T-54AM từ năm 1954 đến năm 1964 và 7.000 xe tăng T-55 (từ năm 1964 đến năm 1978), T-55L, T-55AD-1 và T-55AD-2 (từ năm 1968 đến năm 1979).[8]
Tiệp Khắc đã sản xuất 2.700 xe tăng T-54A, T-54AM, T-54AK, T-54AMK (từ năm 1957 đến năm 1966, trong đó có 1.800 chiếc T-54) và 8.300 xe tăng T-55 và T-55A (từ năm 1964 đến năm 1983; Trong đó có 1700 chiếc T-55, T-55A có lẽ được sản xuất từ năm 1968) được sản xuất theo giấy phép tại nhà máy ZTS ở Martin. Hầu hết trong số chúng được xuất khẩu.[8]
400 chiếc T-55 được sản xuất dưới tên gọi TR-580 và TR-77 từ năm 1970 đến 1977.[8]
Các xe tăng T-54A nhận được đã được sao chép và sản xuất dưới tên gọi Type 59.[8]
Hơn 10.000 chiếc được sản xuất từ năm 1959 đến giữa những năm 1980.[9]
300 xe tăng được lắp ráp từ các bộ xe tăng từ năm 1969 đến năm 1974.[8]
T-54/55 là dòng xe tăng được Liên Xô sản xuất nhiều nhất, và đã tham gia vào rất nhiều các cuộc chiến tranh từ Việt Nam đến Trung Đông, Israel - Ả Rập, Ấn Độ - Pakistan, Afghanistan,..
Khi cuộc chiến tranh Israel - Ả rập xảy ra năm 1967, khối Ả Rập (trừ quân Jordan) được trang bị chủ yếu là xe tăng T-34 (cũ) và T-54/55 của Liên Xô, còn Israel dùng xe tăng Centurion của Anh và M4 Sherman (cũ) của Mỹ. Lực lượng xung kích chính của các lữ đoàn thiết giáp Israel là 385 xe tăng Centurion (đã được nâng cấp với pháo 105mm) và 250 xe M48 Patton (chủ yếu là pháo 90mm).
Do tinh thần thấp và chiến thuật kém, huấn luyện sơ sài, lính tăng Ai Cập đã không phát huy được những ưu điểm của T-54/55 trước đối thủ. Khi Tư lệnh quân đội Ai Cập – tướng Amer ra lệnh rút khỏi bán đảo Sinai, lính tăng Ai Cập đã nhanh chóng mất hàng ngũ, họ vứt bỏ hàng loạt các vũ khí hạng nặng còn nguyên vẹn để rút chạy một cách vô tổ chức. Ai Cập mất gần 820 xe tăng (291 T-54, 82 T-55, 151 T-34/85, 72 IS-3M, 29 PT-76, 50 M4 Sherman), một số lượng lớn vẫn còn nguyên vẹn và bị Israel thu giữ. Còn về phía mình, Israel mất trên bán đảo Sinai 120 xe tăng – ít hơn nhiều so với số xe tăng chiến lợi phẩm thu được. Tuy nhiên, tại mặt trận Syria, lực lượng tăng thiết giáp của Quân đội Syria tỏ ra có chiến thuật tốt hơn nhiều so với quân Ai Cập. Họ chỉ mất tổng cộng 73 chiếc xe tăng bao gồm T-34-85, T-54 và Panzer IV, trong khi đó phía Israel bị phá hủy tới 180 chiếc xe tăng các loại.
Trong thập niên 1960, các xe tăng T-55 thể hiện khả năng tác chiến tốt hơn xe tăng phương Tây vào ban đêm. Các kíp lái xe tăng Centurion và M48 Patton chỉ có thể dựa vào đạn vạch sáng và tên lửa, đèn pha và đèn chiếu, trong khi T-54/55 có kính nhìn đêm sử dụng đèn hồng ngoại. Lúc đầu, lính tăng Israel đã bật đèn pha để tham chiến, nhưng làm như vậy sẽ lộ vị trí xe tăng. Còn đối với đạn vạch sáng, các trưởng xe Israel không kịp quan sát thấy đối phương để chỉ thị mục tiêu cho pháo thủ.
Xét về tổng thể, các xe tăng T-54/55 đáp ứng mức độ hiện đại đối với xe tăng phương Tây ở chiến trường Trung Đông. Mức tổn thất cao chủ yếu là do chiến thuật nghèo nàn, việc huấn luyện sơ sài và tinh thần kém của các kíp lái Ả Rập. Ví dụ như quân thiết giáp Jordan được trang bị phần lớn xe tăng phương Tây giống hệt như quân Israel (xe tăng Centurion và M48 Patton), nhưng họ vẫn thua nặng khi đấu với Israel. Việc này được công nhận bởi chính người Israel – một sỹ quan cao cấp trong quân đội Israel đã từ chối so sánh các xe tăng Mỹ với T-54 và T-62 khi nhấn mạnh rằng quân Ả Rập "đơn giản là thể hiện không đúng lúc và đúng chỗ, gây ra tổn thất cao về xe tăng". Quân đội Israel đã sử dụng hàng trăm xe tăng T-54/55 chiến lợi phẩm với tên gọi Ti-67, Tiran-4Sh và Tiran-5Sh. Những xe này được Israel thay khẩu súng máy DShK trên nóc xe bằng khẩu M2 Browning của Mỹ, thay pháo 100mm bằng pháo 105mm để bắn được đạn của khối NATO.
Trong Nội chiến Jordan năm 1970, các xe tăng T-54/55 của Syria đã gây ra những tổn thất nặng nề cho các xe tăng Centurion mà Jordan mua từ Anh quốc. Trong một trường hợp, một đội T-55 đã ngăn chặn đà tiến của 1 đoàn lớn xe tăng Jordan, 10 chiếc T-55 của Syria đã bị tổn thất đổi lấy 19 xe tăng Centurion của Jordan. Trong toàn cuộc chiến, khoảng 90 chiếc Centurion của Jordan đã bị phá hủy, chủ yếu là bởi T-54/55 của Syria.
Trong Chiến tranh Lebanon năm 1982, các xe tăng T-55 của Syria đã chiến đấu với những chiếc Centurion, M48 Patton và cả Merkava 1 của Israel. Trong trận Sultan Yacoub, một đội hình hỗn hợp T-55 và T-62 đã phục kích ngăn chặn đà tiến của đơn vị lớn xe tăng Israel. 10 chiếc xe tăng, 3 xe thiết giáp của Israel bị phá hủy, phía Syria chỉ bị thiệt hại nhẹ. Quân đội Syria đã thể hiện kỹ năng chiến thuật tốt hơn nhiều so với cuộc chiến năm 1967, và cuối cùng đã ngăn chặn được đà tiến của 5 sư đoàn Israel. Quân Israel thất bại trong việc chiếm thung lũng Beka'a, Syria vẫn giữ được đường cao tốc Beirut-Damascus sau khi chiến đấu với một đối thủ vượt trội cả về số lượng và chất lượng.
Chiếc xe tăng này cũng được Iraq sử dụng nhiều trong Chiến tranh Iran-Iraq 1980-1988, và thu được khá nhiều thành công. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1980, một tiểu đoàn thiết giáp của Iraq gồm các tăng T-55 và T-62 đã phục kích một đoàn xe lớn của Iran, được hộ tống bởi một tiểu đoàn xe tăng Chieftain, đến từ thành phố Ahwaz của Iran. Sau trận chiến ngắn ngủi nhưng mãnh liệt, quân Iraq phá huỷ 20 xe tăng Chieftain và toàn bộ đoàn xe của Iran[10] T-54/55 cũng đã tham gia vào trận đánh xe tăng lớn nhất của cuộc chiến vào đầu tháng 1 năm 1981, chiến dịch Nasr. Iran đã mất khoảng 214 xe tăng Chieftain và xe tăng M60A1, cùng khoảng 100 xe thiết giáp trong trận chiến. Đổi lại, Iraq chỉ mất 45 tăng T-55 và T-62 cùng khoảng 50 xe thiết giáp.
Những chiếc T-55 đã phục vụ cho quân đội Ấn Độ từ thập niên 1960. Nó là một trong những chiếc xe tăng đầu tiên của Nga được sử dụng bởi quân đội Ấn Độ và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan năm 1971 và được triển khai tại Punjab. Trong trận Basantar, những chiếc T-55 (phối hợp cùng một vài chiếc Centurion) của Ấn Độ đã đánh bại lực lượng xe tăng M48 Patton của Pakistan, 10 chiếc xe tăng của Ấn Độ bị phá hủy, trong khi Pakistan bị tổn thất 46 xe tăng.
Trong 1 tình huống tác chiến tại trận này, 3 chiếc xe tăng T-55 của Ấn Độ đã giao chiến với 14 xe tăng M48 Patton của Pakistan. Phía Ấn Độ đã bắn hạ 10 chiếc xe tăng địch[11], trong đó chiếc T-55 của Trung úy Arun Khetarpal đã bắn cháy 7 chiếc. Chiếc T-55 của Trung úy Arun Khetarpal sau đó bị trúng đạn và Khetarpal tử trận, sau đó anh được truy tặng danh hiệu cao quý nhất của quân đội Ấn Độ.
T-55 tiếp tục phục vụ quân đội Ấn Độ cho tới năm 2011, sau đó nó được thay thế bởi T-72 và T-90 hiện đại hơn.
T-54 là xe tăng chiến đấu chủ lực của lực lượng tăng thiết giáp Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn sử dụng hai loại xe tăng khác là T-34 và PT-76, tuy nhiên hai loại xe tăng này chỉ đóng vai trò phụ trợ, lực lượng tác chiến chính vẫn là những chiếc T-54 và Type 59 (phiên bản T-54 do Trung Quốc sản xuất). Trong suốt chiến tranh, Việt Nam đã được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ tổng cộng khoảng 1.000 xe T-54 và Type 59, trong đó riêng Liên Xô viện trợ 687 xe tăng gồm khoảng 400 chiếc T-54 (tuy nhiên trong giai đoạn này, Liên Xô không viện trợ loại xe mới hơn là T-55 cho Việt Nam).
Trong năm 1960, một số đoàn học viên được gửi đi Liên Xô để được đào tạo nâng cao và học về loại T-54. Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận đơn vị tăng thiết giáp đầu tiên, bao gồm 19 xe PT-76, 11 xe T-54, 1 xe MTU-10, 4 xe lai dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34, 11 xe T-54, 31 xe PT-76. Lúc này, tổng số xe tăng thiết giáp và các xe hỗ trợ của Việt Nam đã có là 164 chiếc các loại.
Trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, đây là lần đầu tiên xe tăng T-54 tham chiến tại chiến trường Đông Dương. Bộ đội Tăng thiết giáp với trang bị 88 xe tăng (bao gồm 33 xe tăng T-54) đã cùng các đơn vị bạn đập tan cuộc tấn công của địch, góp phần bảo vệ con đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn.
Trong các chiến dịch năm 1972, Việt Nam huy động 322 xe tăng, xe thiết giáp các loại (trong đó hơn một nửa là T-54), lực lượng tăng thiết giáp Việt Nam đã tham gia nhiều chiến dịch, đánh 82 trận, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật, phương pháp tác chiến và giành nhiều thành tích.
Ngày 24/4/1972, trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên, kíp xe tăng T-54 số hiệu 377 (gồm Thiếu úy Nguyễn Nhân Triển - Trung đội trưởng - trưởng xe, Hạ sĩ Hoàng Văn Ái - pháo thủ, Hạ sĩ Cao Trần Vịnh - lái xe, Hạ sĩ Nguyễn Đắc Lượng - pháo thủ) đã cùng với trung đoàn 1 bộ binh thuộc sư đoàn 2 tấn công căn cứ Đăk Tô 2. Xe 377 dẫn đầu hai xe 354 và 369 lao thẳng vào cứ điểm, nhưng vì gặp chướng ngại vật nên hai xe kia bị tụt lại phía sau. Quân địch cho xuất kích 10 chiếc tăng M41 chia làm 2 mũi bao vây. Chiếc xe tăng 377 đã một mình đối chọi với 10 chiếc xe tăng M41 của địch, tiêu diệt 7 xe tăng M41 trước khi bị trúng đạn và bốc cháy. Cả bốn người đều hy sinh, về sau kíp xe đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.[13]
Trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, chiến sỹ Đoàn Sinh Hưởng là Đại đội trưởng Đại đội 9, Trung đoàn xe tăng 273, kiêm chỉ huy xe tăng T-54 số hiệu 980 đánh trận nổi tiếng trên Đường số 14, góp phần giải phóng Buôn Ma Thuột, tiến quân xuống giải phóng tiếp Phú Yên. Trong chiến dịch, xe tăng của ông đã tiêu diệt hàng chục bộ binh Việt Nam Cộng hòa, bắn cháy 2 xe bọc thép M113, 3 xe tăng, 15 xe vận tải quân sự, đè bẹp 1 trận địa pháo 105mm gồm 4 khẩu, bắn cháy 1 tàu chiến cỡ nhỏ và 1 xuồng chiến đấu. Sau khi giải phóng Phú Yên, Đại đội 9 đã hành quân vào Sài Gòn. Đến Cầu Bông, cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn, 4 xe tăng T-54 của Đại đội 9 giao chiến với 1 đoàn gồm 24 xe tăng - xe thiết giáp của địch. Đại đội 9 bắn cháy 12 xe địch, hỗ trợ bộ binh thu giữ 12 xe còn lại, rồi tiếp tục tiến đánh trại Quang Trung tại ngã tư Bảy Hiền; đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tháng 9 năm 1975, Đoàn Sinh Hưởng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.[14][15][16]
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Bộ Tổng Tư lệnh đã huy động 398 xe tăng, thiết giáp (gồm nhiều xe chiến lợi phẩm) tiến vào chiến đấu dẫn đầu đội hình năm cánh quân giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Một trong những trận đấu tăng cuối cùng trong cuộc chiến diễn ra sáng sớm ngày 30/4/1975 khi Đại đội Xe tăng 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn xe tăng 273 trang bị xe tăng T-54 cùng với bộ binh tiến công từ khu vực Ngã ba Bà Quẹo vào sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. 2 chiếc M48 Patton của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã phục kích tại ngã tư, bắn trúng đầu chiếc xe tăng T-54 số hiệu 985 làm hỏng khẩu pháo. Không thấy pháo xe mình bắn (sau này mới biết pháo đã bị hỏng), trưởng xe 985 ra lệnh tăng tốc vọt lên, húc thẳng vào chiếc M48. Hoảng sợ, tổ lái của chiếc M48 bỏ xe chạy ra ngoài, chiếc M48 còn lại cũng chạy mất.
Chiếc Type 59 số hiệu 390 là chiếc xe tăng đầu tiên húc đổ cổng Dinh Độc Lập vào 10h45' ngày 30/4/1975. Đại đội trưởng Đại đội xe tăng 4 Bùi Quang Thận (kiêm chỉ huy xe tăng T-54 số hiệu 843) đã nhảy xuống xe, chạy lên cắm lá cờ chiến thắng trên nóc Dinh Độc Lập.
Tính chung từ năm 1968 cho đến hết năm 1975, các đơn vị tăng thiết giáp Việt Nam đã tham gia chiến đấu trong 14 chiến dịch, 211 trận đánh, tiêu diệt 2 vạn lính bộ binh, phá hủy gần 2.000 xe tăng - xe thiết giáp và 870 xe quân sự các loại; đánh sập 3.500 lô cốt, ụ súng và trận địa pháo, bắn chìm hoặc bắn cháy 18 tàu, xuồng chiến đấu; bắn rơi 35 máy bay các loại, đồng thời hỗ trợ các đơn vị bạn thu giữ 1.672 xe tăng - xe thiết giáp, 250 súng cối và nhiều trang thiết bị quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Trong thành tích chung này, chiếm tỷ lệ lớn nhất là thành tích của T-54. Đổi lại, khoảng 250 xe T-54/Type 59 của Việt Nam đã bị phá hủy trong suốt chiến tranh (gồm vài xe bị phá hủy trong năm 1971, 136 xe bị phá hủy trong năm 1972, khoảng hơn 100 xe bị phá hủy trong các năm 1973-1975).
Đại đội 9, Lữ đoàn 273, Quân đoàn 3 gồm 4 xe tăng T-54 nhận nhiệm vụ thần tốc tiến về trung tâm Sài Gòn. Dọc đường, 4 xe tăng gặp nhiều chốt chặn. Sau 30 phút, 4 chiếc xe tăng của Đại đội 9 đã tiêu diệt 12 xe tăng - thiết giáp của địch, 12 chiếc khác ra đầu hàng, phía quân Giải phóng bị bắn cháy 1 xe tăng.
Phía tiểu đoàn 1 (gồm Đại đội 1, 3 và 4), lữ đoàn xe tăng 203 thuộc Quân đoàn 2 do tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ chỉ huy tiến vào cầu Sài Gòn lúc 7 giờ sáng. Quân Sài Gòn huy động tới 14 xe tăng - xe thiết giáp, hai pháo hạm trên sông và hai đại đội bộ binh giữ cầu, có cả máy bay ném bom hỗ trợ. Trong trận đánh ác liệt ở đây, quân Giải phóng đã đánh tan cụm phòng ngự nhưng cũng bị bắn cháy 2 xe tăng và 2 xe khác bị bắn hỏng, tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ tử trận.
Sau khi vượt qua khu vực cầu Sài Gòn, đoàn xe tăng tiếp tục tấn công, đi đầu là chiếc xe tăng Type-59 số hiệu 387, đi thứ hai là chiếc Type-59 số hiệu 390, xe T-54 số hiệu 843 của đại đội trưởng đại đội 4 Bùi Quang Thận đi thứ ba, theo sau là chiếc xe Jeep chở đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó trung đoàn bộ binh 66. Đến khu vực Hàng Xanh rồi rẽ trái, gần đến khu cầu Thị Nghè thì gặp ổ kháng cự có cả xe tăng M41 và M113. Chiếc xe 387 trúng đạn, bị hư hại phải dừng lại. Xe 390 bắn trả, tiêu diệt 1 chiếc xe thiết giáp M113. Xe 843 cũng bắn cháy 1 chiếc xe tăng M41 và 1 xe M113.
Hai xe tăng 390 và 843 tiếp tục tiến về Dinh Độc Lập. Xe 843 đi trước, xe 390 của chính trị viên đại đội 4 Vũ Đăng Toàn theo sau. Vừa chạy qua khỏi cầu Thị Nghè lại đụng phải 3 chiếc xe tăng đánh chặn. Xe tăng 390 bắn cháy cả 3 chiếc xe tăng và vượt lên đi đầu. Bộ binh và mấy chiếc xe bọc thép của đối phương ở gần đó bỏ chạy.
Được sự dẫn đường của nhân dân và biệt động Sài Gòn, lúc 10 giờ 30 phút, 2 xe tăng 843 và 390 đã tiến thẳng vào Dinh Độc Lập. Xe 390 vì không biết đường nên chạy qua, đến cổng Trường Lê Quý Đôn thì nhận được tín hiệu của Bùi Quang Thận là phải quay xe lại. Xe tăng 843 đến cổng Dinh Độc Lập trước, Bùi Quang Thận ra lệnh cho pháo thủ số 1 Thái Bá Minh và pháo thủ số 2 Nguyễn Văn Kỷ bắn pháo thẳng vào Dinh để thị uy, nhưng cả 2 viên đạn còn lại đều không nổ. Anh ra lệnh cho lái xe Lữ Văn Hoá húc thẳng vào cổng Dinh.
10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, chiếc xe tăng T-54 mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị kẹt tại đó. Trung úy quân Giải phóng Bùi Quang Thận từ xe 843 nhảy xuống, cầm lá cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chạy bộ vào. Ngay sau đó, xe tăng Type 59 số hiệu 390 của Vũ Đăng Toàn húc sập cánh cửa chính và chạy vào trong sân dinh, đánh dấu chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Dòng xe tăng T-54/55 được chế tạo với số lượng lớn hơn bất kỳ loại xe tăng nào khác trên thế giới. Sáu kiểu chính đã được sử dụng rộng rãi tại các nước thuộc khối Hiệp ước Warsaw và nhiều nước khác. Các mẫu T-54/55 từng được chế tạo tại Tiệp Khắc, Ba Lan cũng như ở Trung Quốc, nơi nó được gọi là Type 59. Hơn 12 nước đã chế tạo các biến thể của T-54/55 với khả năng bảo vệ và khả năng tấn công được nâng cấp. Qua 70 năm, hàng chục quốc gia đã nâng cấp T-54/55 với các trang thiết bị khác nhau (thay pháo chính, trang bị thêm giáp hộp hoặc giáp phản ứng nổ, hệ thống ngắm bắn hiện đại hơn, thay động cơ...), dẫn tới việc có hàng trăm biến thể T-54/55 tồn tại trên khắp thế giới vào năm 2020, rất khó có thể liệt kê đầy đủ. Dưới đây chỉ nêu ra một số biến thể T-54/55 phổ biến:
Có nhiều khác biệt giữa xe T-54 thời kỳ đầu và thời kỳ sau, một số chiếc có giáp rộng hơn và tháp pháo bị cắt ngắn ở bên cạnh. Thỉnh thoảng chúng được coi là T-54 (1949), T-54 (1951) và T-54 (1953).
Là T-54 với tháp pháo mới và nhiều cải tiến, các kiểu được chế tạo về sau này có một súng máy hạng nặng DShK để phòng không. Các cải tiến từ T-54 bao gồm một động cơ diesel làm mát bằng nước V12 và tầm hoạt động rộng hơn (500 km thay vì 400 km). Tầm hoạt động có thể tăng lên đến 715 km với hai bình xăng phụ 200 lít ở hai bên xe. T-55 có tháp pháo hoàn toàn khác so với T-54, sự khác biệt dễ nhận thấy nhất là T-55 không có quạt gió nóc và thay vào đó là hai thanh nóc hình chữ D. Các xe T-55 đầu tiên không có súng máy hạng nặng DShK, cửa sập của nạp đạn viên hơi nhô lên.
Những chiếc T-55 sản xuất đầu tiên được trang bị hệ thống kính quan sát TSh-2B-32P. Bắt đầu từ năm 1970, những chiếc T-55 sản xuất tại Uralwagonzavod được trang bị súng máy phòng không hạng nặng DShK hoặc KPV. Những chiếc xe tăng này được biết với tên gọi là Model 1970, hoặc đôi khi là T-55AM. Hệ thống đo khoảng cách bằng laser KTD-1 hoặc KTD-2 và bộ radio R-123 hoặc R-123M được trang bị cho các xe tăng cũ từ năm 1974 (Model 1974). Đồng thời những nỗ lực đã được thực hiện để hiện đại hóa và kéo dài tuổi thọ của xe.[21][24]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về